Quy hoạch phát triển cảng biển phải đi trước một bước
Mặc dù cảng biển Việt Nam đã được đầu tư xây dựng, khai thác từ hơn 1,5 thế kỷ, nhưng trải qua thời gian dài đất nước chiến tranh và khắc phục hậu quả sau chiến tranh, hạ tầng nói chung, trong đó có hạ tầng cảng biển được đầu tư rất hạn chế, chủ yếu phục vụ thời chiến và nền kinh tế bao cấp nghèo nàn. Kết cấu hạ tầng cảng biển chỉ thực sự được quan tâm đầu tư có hệ thống trong thời gian hai thập kỷ qua.
Năm 1999, Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng biển đầu tiên ra đời tạo một bước ngoặt, đưa kinh tế khai thác cảng biển sang một trang mới. Từ đó đến nay, hệ thống cảng biển Việt Nam đã trải qua 02 thời kỳ quy hoạch (giai đoạn 2000 - 2010 và 2010 - 2020).
Trong giai đoạn này, cảng biển đã được quan tâm đầu tư và khẳng định vai trò quan trọng là hạ tầng giao thông, hạ tầng kinh tế thiết yếu để thúc đẩy tiến trình phát triển kinh tế đất nước trong thời kỳ mở cửa.
Giai đoạn 2000 - 2010 với mục tiêu xây dựng và phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam theo quy hoạch tổng thể và thống nhất trên quy mô cả nước; hình thành những trung tâm kết nối cơ sở hạ tầng GTVT tại các khu vực, đặc biệt là tại các vùng kinh tế trọng điểm; tạo cơ sở vật chất kỹ thuật về cảng biển để phục vụ cho việc phát triển kinh tế, đồng thời khẳng định vị trí và ưu thế về kinh tế biển của đất nước đối với khu vực và thế giới, tạo ra những đầu mối giao lưu kinh tế quan trọng giữa trong nước với nước ngoài.
Định hướng phát triển hạ tầng cảng biển trong thời kỳ này còn giới hạn trong việc phát triển các bến cảng có quy mô “trên 30.000 DWT”. Căn cứ quy hoạch tổng thể đã được phê duyệt, Bộ GTVT đã chỉ đạo xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt 8 nhóm cảng biển, bao gồm: Nhóm 1: Cảng biển phía Bắc, bao gồm các cảng biển từ Quảng Ninh đến Ninh Bình; Nhóm 2: Cảng biển Bắc Trung bộ, bao gồm các cảng biển từ Thanh Hóa đến Hà Tĩnh; Nhóm 3: Cảng biển Trung Trung bộ, bao gồm các cảng biển từ Quảng Bình đến Quảng Ngãi; Nhóm 4: Cảng biển Nam Trung bộ, gồm các cảng biển từ Bình Định đến Bình Thuận; Nhóm 5: Cảng biển TP. Hồ Chí Minh - Đồng Nai - Bà Rịa - Vũng Tàu; Nhóm 6: Cảng biển đồng bằng sông Cửu Long; Nhóm 7: Cảng biển các đảo Tây Nam và Nhóm 8: Cảng biển Côn Đảo.
Các dự án cảng được ưu tiên đầu tư là 10 cảng biển quan trọng của quốc gia, bao gồm: Cái Lân, Hải Phòng, Cửa Lò, Đà Nẵng (Tiên Sa - Sông Hàn); Dung Quất; Quy Nhơn, Nha Trang, Thị Vải, Sài Gòn, Cần Thơ.
Giai đoạn 2010 - 2020: Đây là thời kỳ mà khi chúng ta mới gia nhập một loạt các diễn đàn kinh tế quan trọng của quốc tế và đã cơ bản định hình những chính sách kinh tế hội nhập, do đó cảng biển trong giai đoạn này cũng đặt ra những mục tiêu mới với tầm vóc mới như: “Phát triển toàn diện hệ thống cảng biển, đột phá đi thẳng vào hiện đại, nhanh chóng hội nhập với các nước tiên tiến trong khu vực về lĩnh vực cảng biển nhằm góp phần thực hiện mục tiêu của Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020, từng bước đưa kinh tế hàng hải trở thành mũi nhọn hàng đầu trong 5 lĩnh vực kinh tế biển...; chú trọng phát triển các cảng nước sâu ở cả 3 miền Bắc, Trung, Nam, tạo những “cửa mở lớn” vươn ra biển xa có sức hấp dẫn, ảnh hưởng tới địa bàn các nước lân cận trong khu vực...”.
Định hướng phát triển hạ tầng cảng biển trong thời kỳ này đã được mở rộng để đáp ứng nhu cầu vận tải hội nhập toàn cầu với quy mô cảng đáp ứng cho tàu trọng tải đến trên 100.000 DWT; ưu tiên tập trung vào các dự án tạo động lực và có sức lan tỏa lớn.
Đối với cảng tổng hợp, giai đoạn khởi động cảng trung chuyển quốc tế Vân Phong; khu bến Lạch Huyện - cảng cửa ngõ quốc tế Hải Phòng; khu bến Cái Mép, Phú Mỹ - cảng cửa ngõ quốc tế Vũng Tàu; khu bến Hiệp Phước - cảng TP. Hồ Chí Minh; khu bến Cái Cui - cảng Cần Thơ.
Đối với cảng chuyên dùng, khu bến của liên hợp lọc hóa dầu Nghi Sơn - Thanh Hóa, Long Sơn - Bà Rịa - Vũng Tàu; liên hợp luyện kim Kê Gà - Bình Thuận; cảng đầu mối tiếp nhận than phục vụ các trung tâm nhiệt điện tại Nghi Sơn - Thanh Hóa, Vũng Áng - Hà Tĩnh, Vĩnh Tân - Bình Thuận và vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Việc phân định các nhóm cảng so với giai đoạn trước năm 2010 cũng được hoạch định lại gồm 6 nhóm, ghép Nhóm cảng số 7 vào Nhóm 5 và Nhóm 8 vào Nhóm 6 để đồng bộ trong công tác quản lý phát triển cảng biển.
Cảng biển - động lực phát triển kinh tế biển
Thời gian qua, được sự quan tâm và đầu tư, cảng biển Việt Nam đã định hình một hệ thống cảng gồm 45 cảng biển (32 cảng biển trong lục địa và 13 cảng dầu khí ngoài khơi) với 272 bến cảng, tổng chiều dài gần 87.550m cầu cảng, công suất thông qua khoảng 550 triệu tấn/năm. Gắn liền với các trung tâm, các vùng kinh tế lớn của cả nước đã hình thành các cảng biển lớn với vai trò là đầu mối phục vụ xuất nhập khẩu hàng hóa và tạo động lực phát triển toàn vùng như: Cảng biển Quảng Ninh, Hải Phòng gắn với vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc; cảng biển Thừa Thiên - Huế, Đà Nẵng, Dung Quất, Quy Nhơn gắn với vùng kinh tế trọng điểm miền Trung; cảng biển TP. Hồ Chí Minh, Bà Rịa - Vũng Tàu, Đồng Nai gắn với vùng kinh tế động lực Đông Nam bộ; cảng biển Cần Thơ, An Giang gắn với vùng kinh tế trọng điểm đồng bằng sông Cửu Long. Một số cảng biển đã và đang được đầu tư với quy mô hiện đại mang tầm vóc quốc tế như cảng biển Bà Rịa - Vũng Tàu, cảng biển Hải Phòng. Các cảng này đã và đang thực hiện vai trò cảng cửa ngõ quốc tế và đảm nhận chức năng trung chuyển.
Nhìn lại chặng đường phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam thời gian qua, hạ tầng cảng biển đã được nâng lên về nhiều mặt, là động lực quan trọng giúp kinh tế biển ngày một phát triển.
Về quy mô cảng: So với năm đầu tiên thực hiện quy hoạch (năm 2000), hệ thống cảng biển Việt Nam đã tăng lên 4,4 lần về chiều dài bến cảng. Năng lực bến cảng được quan tâm, nâng cấp cải tạo để tiếp nhận các tàu có trọng tải ngày càng lớn hơn. Hầu hết các cảng tổng hợp, đầu mối khu vực, bao gồm: Quảng Ninh, Hải Phòng, Nghi Sơn, Hà Tĩnh, Thừa Thiên - Huế, Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Quy Nhơn, Khánh Hòa, Bà Rịa - Vũng Tàu, TP. Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Long An đã được đầu tư mới và cải tạo nâng cấp cho phép tiếp nhận tàu có trọng tải đến 30.000 DWT và lớn hơn phù hợp với xu thế phát triển của đội tàu biển thế giới. Nhiều bến cảng đầu tư mới với quy mô hiện đại cho phép tiếp nhận tàu trọng tải lớn đến hàng trăm ngàn tấn như các bến cảng khu vực Cái Mép - Thị Vải tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu và bến cảng Lạch Huyện - Hải Phòng. Ngày 20/02/2017, bến cảng CMIT - cảng Bà Rịa - Vũng Tàu đã tiếp nhận thành công tàu container lớn nhất thế giới hiện nay với trọng tải từ 18.300 TEU (194.000 DWT). Đây là cơ sở quan trọng, khẳng định năng lực cảng biển Việt Nam, tạo tiền đề để các hãng tàu sử dụng cảng biển Việt Nam làm mắt xích trong chuỗi hải trình toàn cầu.
Lần đầu tiên tại Việt Nam, các bến cảng chuyên dùng hành khách đã được quan tâm, đầu tư xây dựng tại Hòn Gai (Quảng Ninh) và Phú Quốc (Kiên Giang), khi các bến cảng này hoàn thành cho phép tiếp nhận tàu khách quốc tế có trọng tải đến 225.000 GT, bước đầu đáp ứng nhu cầu vận tải hành khách du lịch quốc tế bằng đường biển.
Chất lượng dịch vụ khai thác cảng ngày một nâng cao: Từ những chính sách mở về đầu tư, thời gian qua chúng ta đã thu hút được nhiều nhà đầu tư là các nhà khai thác cảng chuyên nghiệp, các hãng tàu lớn của thế giới tham gia đầu tư xây dựng và khai thác cảng biển tại Việt Nam như: Tập đoàn DP World - UAE (nhà khai thác cảng số 5 thế giới) tham gia đầu tư, khai thác bến cảng SPCT - TP. Hồ Chí Minh; Tập đoàn SSA Marine - Mỹ (nhà khai thác cảng thứ 9 thế giới) tham gia đầu tư khai thác bến cảng CICT tại tỉnh Quảng Ninh và bến cảng SSIT tại tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; Tập đoàn PSA - Singapore (nhà khai thác cảng số 3 thế giới) tham gia đầu tư, khai thác bến cảng SP-PSA tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; Tập đoàn APMT - Đan Mạch (nhà khai thác cảng số 2 thế giới) tham gia đầu tư khai thác Cảng CMIT tại tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; Tập đoàn Hutchison Port Holding - Hồng Kông (nhà khai thác cảng biển số 1 thế giới) tham gia đầu tư bến cảng SITV tại tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Các hãng tàu Mitsui O.S.K line (Nhật Bản), Wanhai Lines (Đài Loan) - hãng tàu trong Top 20 thế giới tham gia đầu tư, khai thác bến cảng container quốc tế Tân Cảng - Cái Mép; hãng tàu MOL, NYK (hãng tàu trong Top 20 thế giới) tham gia đầu tư bến cảng Lạch Huyện... Những nhà khai thác cảng chuyên nghiệp trên thế giới, các hãng tàu và một số nhà khai thác cảng trong nước như Tổng công ty Tân Cảng Sài Gòn, Tổng công ty Hàng hải Việt Nam đã mang đến những dịch vụ cảng biển tốt nhất, góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ và sức cạnh tranh của cảng biển Việt Nam.
Không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ, xếp dỡ tại cảng biển, hệ thống cảng biển Việt Nam thông qua lượng hàng hóa ngày một lớn, mức tăng trưởng bình quân hàng năm giai đoạn 2000 - 2017 là 10,4%, riêng hàng container có mức tăng trưởng bình quân 13,4%/năm. So với năm 2000, sản lượng hàng hóa thông qua cảng biển Việt Nam năm 2017 đã tăng 6 lần về tổng hàng từ 73 triệu tấn lên 442 triệu tấn và tăng 12,5 lần về hàng container từ 1,1 triệu TEU lên 14,4 triệu TEU.
Những dịch vụ cảng biển ngày càng hoàn thiện, thủ tục hành chính cho tàu biển không ngừng được cải thiện, rút ngắn thời gian chờ đợi tàu. Mặt khác, do nhu cầu hàng hóa vận tải bằng đường biển ngày càng lớn nên đã thu hút các hãng tàu mở tuyến tàu mẹ kết nối với Cái Mép - Thị Vải. Năm 2013, khu vực này có tổng cộng 8 tuyến/tuần thì đến năm 2014 - 2015, lượng tàu tăng lên 10 tuyến/tuần và đến nay là 22 chuyến/tuần.
Ngày 13/5/2018, cảng cửa ngõ quốc tế Hải Phòng tại Lạch Huyện đã chính thức khánh thành và đưa vào khai thác 02 bến khởi động, tiếp nhận tàu trọng tải 100.000 DWT, đây sẽ là bến cảng tiếp theo tại khu vực phía Bắc cho phép tiếp nhận các tàu mẹ trên tuyến hải trình quốc tế.
Các bến cảng tại Cái Mép - Thị Vải và Lạch Huyện hoàn thành đưa vào khai thác có khả năng tiếp nhận tàu container trọng tải lớn là cơ sở rất quan trọng, tạo tiền đề để đưa cảng biển Việt Nam trở thành mắt xích trong chuỗi vận tải, logistics toàn cầu.
Theo Báo Mới